Monday, December 13, 2010

ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG TỊNH ĐỘ - Thích Vân Pháp

ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG TỊNH ĐỘ - Thích Vân Pháp
(09/17/2010) (Xem: 399)
Tác giả : Thích Vân Pháp


ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG TỊNH ĐỘ

Thích Vân Pháp
=================================

Trong rất nhiều pháp môn tu tập theo giáo lý Phật giáo, thì mỗi một pháp môn tu tập là mỗi một con đường đi về với quê hương của chính mình, là mỗi một con đường đi về với quê hương chư Phật. Và, Tịnh độ cũng là một trong những con đường giúp ta sớm trở về với quê hương ấy.

Ý NGHĨA TỊNH ĐỘ

Chúng ta biết rằng, khi đức Phật Thích Ca giới thiệu cho chúng sanh một thế giới Cực lạc ở phương Tây của đức Phật A di đà và được ghi lại trong Tiểu bản kinh A di đà, đó là một thế giới hoàn toàn vắng mặt khổ đau. Nhưng thế giới Tịnh độ không phải chỉ riêng tịnh độ của đức Phật A di đà, mà tịnh độ là từ chỉ chung cho các cõi khác như, tịnh độ Diệu Hỷ hay Diệu Lạc ở đông Phương của đức Phật A Súc hay là Bất động Phật, đức Phật không bị lay chuyển bởi sóng gió cuộc đời hay bởi biển cả sanh tử luân hồi; có một tịnh độ khác như tịnh độ Đâu Suất của đức Di Lặc, tịnh độ của đức Phật Dược Sư,.v.v....

Tịnh độ, phạn ngữ gọi là Amàla ksïetra; trong đó A là không, màlà là ô nhiễm, nên A + màla nghĩa là không ô nhiễm. Không ô nhiễm là sạch (tịnh). Và thuật ngữ ksïetra dịch là 'sát' (cõi, thế giới) hoặc 'độ'. Như thế, "độ", chức năng của nó là danh từ, còn "tịnh" là tính từ.

Lại nữa, phạn ngữ cũng có từ Sukhàvati để chỉ cho tịnh độ; trong đó Sukha là lạc (an vui, happiness).

Vậy, Tịnh độ nghĩa là cõi nước thanh tịnh hay thế giới không ô nhiễm; nói cách khác thế giới không cáu bẩn, không nhiễm từ thân thể đến tâm hồn và cõi nước. Thế giới ấy trong sạch từ ngoại tại lẫn nội tại.

A di đà phạn gọi là Amita, có nghĩa là vô lượng, tức là không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian. Sau thuật ngữ Amita phạn văn có phụ thêm -abha, nghĩa là ánh sáng. Amita + abha = amitàbha, tức là ánh sáng vô lượng (vô lượng quang). Vì vậy, đức Phật A di đà liên quan đến mặt trời và ánh sáng.

Lại nữa, sau thuật ngữ Amita, có phụ thêm chữ -àyus, nghĩa là sống, thọ mạng. Vì thế, Amita + àyus = Amitàyus; dịch là mạng sống không giới hạn bởi không gian và thời gian (vô lượng thọ[1]).

Vậy, Amitàbha hay Amitàyus đều chỉ cho ngài A di đà với ánh sáng vô lượng và thọ mạng vô cùng.

Do đó, ý nghĩa "tịnh độ cực lạc" hay "A di đà" là ý nghĩa diễn tả một cõi nước rất an vui, sung sướng với y báo và chánh báo rất nghiêm lệ, nhằm đáp ứng nguyện vọng của con người.

Nên, việc sùng bái ánh lửa và xem là sự linh thiêng có thể mang lại trường thọ và nhiều may mắn của Ba tư giáo hay Ấn độ giáo là điều đã xảy ra. Hoặc như đạo Nho khuyên mọi người sống với nội dung "tam cương ngũ thường" nhằm đưa xã hội thăng hoa và ổn định; lại như Kyto giáo khuyên tín đồ nên đặt niềm tin vào Thượng đế để được sống lâu và yên ổn... cho đến Phật giáo khuyên mọi người niệm Phật để đến với thế giới hoàn toàn bình an, không còn bị khổ đau nữa, tất cả đều là hoài vọng muôn đời của con người.

MỘT SỐ KINH TIÊU BIỂU CỦA TỊNH ĐỘ TÔNG

hệ thống kinh điển được đề cập đến của tông này gồm bảy quyển[2], trong đó ba quyển được xem là các kinh căn bản và phổ biến nhất, đó là: kinh vô lượng thọ, kinh quán vô lượng thọ và kinh A di đà tiểu bản.

1. KINH VÔ LƯỢNG THỌ[3]

Kinh này được đức Phật Thích ca thuyết giảng và chúc luỵ cho các vị Bồ tát, Duyên giác và các Thanh văn ở núi Kỳ xà quật thành Vương xá.

Đại ý kinh này được tóm tắt như sau:

- Do cơ duyên xuất hiện các vị đại Bồ tát, các vị cổ Phật tại núi Kỳ xà quật và sự thỉnh cầu của các vị trời Đế thích, Phạm vương mà Ngài nói kinh Vô lượng thọ.

- Đức Phật Thích Ca mâu ni nói về hạnh nguyện và công đức của tỷ kheo Pháp Tạng, với 48 lời nguyện rộng lớn. Sự phát nguyện của tỷ kheo Pháp Tạng đã làm chấn động khắp các cõi nước. Nhờ năng lực phát nguyện ấy, trải qua vô số kiếp thực hành hạnh Bồ tát và thành tựu địa vị Phật đà, hiệu A di đà - giáo chủ cõi nước cực lạc ở phương Tây.

- Mô tả cảnh giới của đức Phật A di đà với những kiến trúc nguy nga, lộng lẫy, trang nghiêm và thanh tú. Ở đó, người ta thấy ánh sáng vi diệu vô lượng (quang minh vô lượng), sống lâu vô tận, không sợ cái chết đến rình rập (thọ mạng vô lượng). Thế giới ấy được tạo dựng bởi hạnh nguyện của đức Phật A di đà với hương hoa thắng diệu, các loại chim do ngài A di đà biến hiện ra để thuyết pháp.

- Sau cùng là con đường hướng đến đời sống tu tập để có thể trở về với quê hương tịnh độ. Bằng tâm thanh tịnh, vô nhiễm và lòng tín thành là những chất liệu để tiếp cận với cảnh giới của đức Phật A di đà. Như trong quyển hạ kinh nầy có đoạn:"các chúng sanh nghe danh hiệu tịnh độ đều tín tâm hoan hỷ, cùng một ý nghĩ, hết còn thối chuyển, nguyện được sanh ở nước ấy. Phát ba thứ tâm[4] thì sẽ được vãng sanh."

Kinh vô lượng thọ rất cần thiết cho những ai muốn tu tập theo pháp môn tịnh độ. Vì nó được ví như như sợi dây thừng dùng để lôi kéo những ai đang chìm dần xuống hang giếng thâm sâu của bùn lầy sanh tử. Do đó, Đức Thế Tôn, khi thuyết giảng kinh nầy, đã nói: "Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng lòng Từ bi thương xót, riêng lưu kinh nầy trong khoảng 100 năm. Nếu chúng sanh nào gặp kinh nầy, tuỳ ý sở nguyện, đều được cứu thoát."[5]

2. KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ

Kinh Quán vô lượng thọ[6] là một trong ba kinh được đề cập nhiều nhất của tịnh độ tông. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, nó là một bộ kinh gây ảnh hưởng lớn trong quần chúng về tín ngưỡng Di đà. Và kinh này được dịch vào triều đại Lưu Tống, do Khương Lương Da Sá dịch (Kalayacas).

Nhân duyên thuyết giảng kinh nầy là Đức Phật nhân cơ hội bà Vi Đề Hy (Vaidehi)[7] thỉnh cầu. Trước cảnh đời "bạc như vôi" mà bà chứng kiến, cảnh con trai là thái tử A xà thế (Ajtacatra) hành hạ cha đẻ và bỏ ông ấy vào ngục tù đói lạnh, không ai thăm viếng, kể cả bà cũng bị nghiêm cấm, nên bà đã rất thất vọng, mong nhờ đức Phật khai mở lối thoát. Đức Thế Tôn đã rất xúc động trước tình cảnh ấy của hoàng hậu Vaidehi, nên ngài đã dạy cho bà niệm Phật A di đà để được vãng sanh về thế giới Cực lạc.

Và Đức Phật dạy rằng: nếu ai muốn sanh về thế giới Cực lạc của đức Phật A di đà thì phải thực hành ba việc sau:

- Phải làm lành bằng cách chu toàn bổn phận của người chồng, người mẹ, người vợ, người dâu, tức phải biết hiếu dưỡng.

- Làm lành bằng cách thọ trì Tam quy, ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới,...

- Làm lành bằng cách thực tập Tứ diệu đế, cũng như trong các buổi giảng pháp, đọc kinh điển đại thừa, khuyên người tu hạnh tinh tiến.

Lại nữa, kinh Quán vô lượng thọ, còn đưa ra 16 phương pháp quán tưởng về mặt trời. quán tưởng nước, đất, cây cối, toà sen, sắc tướng, .v.v...

Trong 16 phép quán nầy kết hợp với chín phẩm vãng sanh, gồm: ba bậc thượng phẩm vãng sanh, ba bậc trung phẩm vãng sanh, và ba bậc hạ phẩm vãng sanh.

Muốn được vãng sanh về thượng phẩm thì chúng ta phải từ tâm, không sát hại, nghiêm trì giới hạnh, tụng đọc các kinh Phương đẳng đại thừa, tu hành Lục niệm[8], hồi hướng phát nguyện vãng sanh Tịnh độ gọi là thượng phẩm thượng sanh. Như không đọc các kinh Phương đẳng đại thừa mà hiểu được "đệ nhất nghĩa đế", tin tưởng sâu sắc vào luật nhân quả, không phỉ báng đại thừa gọi là thượng phẩm trung sanh. Như nếu phát khởi đạo tâm vô thượng, tin nhân quả không phỉ báng đại thừa, tức là thượng phẩm hạ sinh. Ba bậc nầy thuộc về thượng phẩm vãng sanh.

Đối với hạng người tu hành giữ giới cấm, không tạo tội ngũ nghịch, không mắc phạm sai lầm, gọi là trung phẩm thượng sanh. Nếu một ngày một đêm trì giới thanh tịnh (bát quan trai giới), gọi là trung phẩm trung sanh. Còn nếu hạng người chưa thọ giới, nhưng luôn luôn biết hiếu dưỡng cha mẹ, thực hiện nhân từ trong thế gian, khi sắp lâm chung, nghe thấy y báo, chánh báo trang nghiêm của đức Phật A di đà, phát nguyện vãng sanh, gọi là trung phẩm hạ sanh. Đó là ba bậc thuộc trung phẩm vãng sanh.

Còn lại ba phẩm thuộc hạ sanh, là chỉ cho hạng người thiện ác lẫn lộn. Nếu họ gây ác nghiệp, nhưng không bài báng kinh điển đại thừa, hạng này được hạ phẩm thượng sanh. Đối với hạng huỷ phạm giới luật, ăn trộm tài sản của tăng, thuyết pháp bất tịnh như vì danh dự, lợi dưỡng, địa vị mà thuyết pháp, gọi là hạng hạ phẩm hạ sanh.

Trên đây là tóm tắt đại ý của kinh quán vô lượng thọ mà đức Phật đã dạy nhân vụ việc của hoàng hậu Vi đề hy.

3. Kinh A di đà tiểu bản[9].

Kinh này có tên là Phật thuyết A di đà kinh, 1 quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập đời Tần dịch sang Hán văn. Đây là kinh thuộc thể loại "vô vấn tự thuyết", nghĩa là không có người hỏi, mà đức Phật tự thấy hợp thời, hợp căn cơ mà nói.

Nội dung kinh nầy, đức Phật gọi ngài Xá lợi Phất và đại chúng mà giới thiệu, mô tả và ca ngợi cảnh giới thắng diệu, nghiêm lệ của đức Phật giáo chủ A di đà ở phương Tây. Kinh chép rằng, lúc bấy giờ đức Thế Tôn đang ở tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây của Thái tử Kỳ đà, với 1250 vị đệ tử của Ngài. Lúc ấy, đức Phật gọi thấy Xá lợi Phất và bảo: "Từ đây đi qua phương Tây cách khoảng mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, trong cõi ấy có một vị Phật hiệu A di đà, hiện đang thuyết pháp"[10].

Thế giới mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni mô tả và ca ngợi ấy, được tóm tắt như sau:

- Hàng rào được bao bọc bởi bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây và đều làm bằng bốn thứ châu báu, là vàng, bạc, lưu ly và pha lê.

- Hồ ao được tạo nên bởi nước có tám công đức[11], ở đáy hồ toàn bằng cát vàng.

- Đường sá làm bằng bốn thứ châu báu, hai bên đường có vô số lâu đài được tạo nên bởi bảy loại báu[12].

- Hoa sen trong hồ lớn như các bánh xe, mỗi màu sắc đều phản chiếu hào quang rự rỡ, như sen xanh chiếu hào quang xanh, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, .v.v....

- Thú tiêu khiển: ở cõi nước đó có dàn nhạc từ không trung vọng xuống, hoa Mạn đà la rãi xuống như mưa mỗi ngày sáu lần. Nghe chim thuyết pháp bằng những thanh âm hoà nhã, giọng hót của chúng mang chất liệu của các pháp môn: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Giọng hót của các loài chim do đức Phật A Di Đà hoá hiện ra, như Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá lợi, Ca lăng tần già và Cộng mạng... mỗi khi cất lên đều khiến cho mọi người trong nước ấy nhớ ngay đến Phật, Pháp và Tăng.

- Cách trang trí: Hai bên đường, trên những gốc đỉnh của những toà lâu đài có treo các chuông rung (chuông gió) để mỗi khi có gió nhẹ xao động, các hàng cây, các màn lưới châu báu thì thanh âm vi diệu vang lên như trăm ngàn nhạc khí được hoà tấu, và khiến người dân khi nghe đều nhớ đến Tam bảo.

- Sinh hoạt: Cứ mỗi buổi sáng, dân chúng lấy lẵng hoa để hứng các bông hoa mầu nhiệm từ hư không rụng xuống, sau đó họ đem các lẵng hoa ấy đem đi cúng dường các vị Phật ở các phương khác, trưa về lại bổn quốc, thọ thực rồi kinh hành.

- Thiện tri thức và bạn lữ: Ngoài đức Phật A di đà là thầy, là giáo chủ, dân chúng còn có các bậc thiện tri thức đều là bạn và luôn luôn dìu dắt để cùng thực tập pháp môn niệm Phật.

Vì thế, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khuyên chúng sanh hãy phát tâm niệm Phật trong vòng một đến bảy ngày, đến khi nào "Nhất tâm bất loạn" thì sẽ được sanh về nước Cực lạc của đức Phật A Di Đà.

Và sau cùng là lời khen ngợi của chư Phật mười phương đối với đức Phật Thích Ca; vì đây là pháp môn rất khó tin mà Ngài Thích Ca đã nói được điều đó để mọi người cùng tin tưởng và thực tập. Ngài dạy: "Quý vị hãy tin vào lời tôi đang nói mà cũng là lời của chư Phật đang nói".

Trên đây là sự trình bày tóm lược về ba Kinh căn bản của tông phái tịnh độ.

TỊNH ĐỘ: THẾ GIỚI BẢN NGUYỆN

Mọi người, khi đề cập đến tư tưởng Bản nguyện, đều cho rằng đó là phạm trù thuộc Phật giáo đại thừa, còn tiểu thừa thì không chấp nhận tư tưởng này.

Tư tưởng của nguyên thủy Phật giáo hay Tiểu thừa Phật giáo rất chú trọng và đề cao sự giải thoát chính mình ngay trong kiếp này và A La Hán vị là quả chứng cao nhất. Đồng thời quan điểm của tiểu thừa giáo lấy việc Tự lực là chính còn Tha lực là phạm trù nằm ngoài khả năng thực chứng.

Xét kỹ thì sự manh nha tư tưởng Bản nguyện phát sinh từ thời Phật còn tại thế, và diễn tả trong các kinh điển thuộc hệ A hàm và Nikaya. Nhưng, đến thời kỳ Phật Giáo Đại thừa xuất hiện thì tư tưởng này mới thật sự hình thành và phát triển. Chẳng hạn, trong tiểu phầm Bát Nhã có Lục nguyện (Lục Ba La Mật), mười tám nguyện trong kinh A Sơ Phật, 24 nguyện trong kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, 30 nguyện của Đại Phẩm Bát Nhã, 36 nguyện của kinh Vô Lượng Thọ.

Tư tưởng Bản nguyện lấy Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh làm chủ yếu; nghĩa là đem tâm trong sáng (Tuệ tâm), tâm thanh tịnh vô nhiễm (Thanh tịnh tâm) mà tu tập hóa độ chúng sanh; đem tâm rộng lớn (Đại tâm), tâm chân thật (Chân tâm), tâm bao dung hỷ xả (từ bi tâm) mà cứu độ mọi loài, tâm như thế gọi là Bồ đề tâm. Dùng tâm Bồ đề ấy, phát khởi thệ nguyện rộng lớn, vị tha, trong sáng để cứu giúp chúng sinh, gọi là Bồ đề nguyện. Giúp chúng sinh thực hành các thiện pháp, rồi kiến thiết thế giới Tịnh độ cho chúng sinh quy về gọi là Bồ đề hạnh. Do đó, thế giới Bản nguyện là thế giới được thiết lập trên căn bản của Nguyện lực. Hay nói cách khác, thế giới ấy được thiết lập trên Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh. Và lẽ đương nhiên, thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là thế giới Bản nguyện, bởi thế giới ấy được thiết lập trên căn bản 48 lời nguyện của Phật A di đà khi còn là Bồ Tát Pháp Tạng.

Thế giới Bản nguyện là thế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui. Vì thế, trong kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ hay kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v.... đều diễn tả thế giới ấy rất nghiêm tịnh, tráng lệ, không có dấu tích của khổ đau, không có bóng dáng của thù hận, không có con đường thấp kém, sa đọa như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh: “Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy vì sao tên là Cực Lạc? Bởi vì dân chúng trong nước ấy không biết khổ là gì, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cõi ấy được gọi là Cực lạc”[13] (Kinh A Di Đà). Nơi ấy có các vị Phật thường thuyết pháp, có hoa thơm rơi xuống sực nức mùi hương, có chim báu do Phật A Di Đà biến hóa ra để thuyết pháp vi diệu, có nhạc đàn từ hư không vọng xuống, có ao hồ bằng bảy báu với những hoa sen đủ màu tỏa chiếu hào quang, có lâu đài bằng bảy báu, có đường sá bằng phẳng, có cây báu bên đường v.v.. Tất cả đều được xây dựng trên năng lực thệ nguyện của đức Phật A Di Đà. Bởi thế, thế giới Bản nguyện chính là con đường hành đạo của Bồ Tát. Bồ Tát hành đạo như dòng nước chảy không sợ sự ngăn ngại của sự vật, đối tượng, của hàng trúc kín vây quanh, như áng mây nhẹ trôi, dẫu non cao chặn đứng. "Trúc kín đâu ngăn dòng nước chảy, Núi cao đâu ngại áng mây bay"[14.

Vì thế, dầu địa ngục có khủng khiếp và ghê tởm bao nhiêu đi nữa thì bước chân của ngài Địa Tạng không thoái bộ để vào đó cứu quần mê; Ta bà có ô trược đến đâu thì Ngài Anan cũng nguyện vào trước[15], chúng sinh đau khổ bao nhiêu đi nữa thì Ngài Quán Thế Âm cũng nguyện ngồi lắng nghe mà hóa độ để đưa họ về với thế giới không khổ, không đau, không sanh, không tử, không cô đơn buồn chán và thất vọng.

Lại nữa, thế giới Bản nguyện cũng là thế giới của Đạo đức và Văn hóa. Tại sao? Vì thế giới đó không có con người thấp kém mà chỉ có các bậc thượng thiện nhân. Hễ nơi nào có các bậc thượng thiện nhân là nơi đó có Đạo đức, có Văn hóa; còn hễ nơi nào có những kẻ thấp kém, ích kỷ hẹp hòi là nơi đó không có Đạo đức, không có Văn hóa. Nơi mà có những kẻ thấp kém tầm thường, ích kỷ có mặt là nơi ấy đánh mất chủ quyền, nơi mà đời sống hết sức bẩn thỉu, nên thế giới của họ cũng nhơ nhớp ô uế với đầy khổ đau, phiền não và dục vọng... Trái lại, những nơi nào có các bậc thượng thiện nhơn cư ngụ, các vị Bồ tát và Chư Phật an trú thi nơi đó hoàn toàn có tự do, và thật cao thương; môi trường sống của họ cũng hết sức nghiêm tịnh, sạch đẹp, thơm tho và tráng lệ. Điều này được diễn tả trong các kinh nói về Tịnh độ tông, đặc biệt là kinh A Di Đà, kinh Vô lượng thọ v.v....

Tóm lại, thế giới Bản nguyện là thế giới của nguyện lực được thiết lập trên căn bản Bồ đề tâm, Bồ đề nguyện và Bồ đề hạnh để kiến thiết và xây dựng một thế giới, cõi nước có Văn Hóa và Đạo Đức. Bởi ở đó người ta làm đúng với sự thật, nói đúng với sự thật, và suy nghĩ đúng với sự thật. Và đó chính là điểm hấp dẫn thu hút sự tìm tòi và khám phá của con người.

TỊNH ĐỘ: CON ĐƯỜNG CHUYỂN HÓA TỰ TÂM

Sự tìm tòi, khám phá của con người chính là sự khám phá và chuyển hóa tâm thức. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Tâm như họa sư năng họa nhất thiết hình tượng”[16], nghĩa là tâm ta như người nghệ sĩ có thể vẽ ra vô vàn cảnh vật, hiện tượng đẹp, xấu khác nhau. Tâm chúng ta có thể tạo ra Thiên đường, có thể xây nên Địa ngục. Vì thế, sự hiện hữu của tâm thức chính là sự hiện hữu của hai mặt trái ngược nhau trong tâm thức con người; sự thấp kém và cao thượng.

Nếu tư tưởng của chúng ta vẩn đục, ích kỷ thì đời sống của chúng ta trở nên nhỏ nhen, thấp kém. Trái lại, nếu tư tưởng chúng ta rộng lớn, bao dung và hỷ xả thì đời sống của chúng ta sẽ trở nên cao đẹp, thanh thoát. Và cảnh vật hiện hữu xung quanh chúng ta là sự hiện hữu rất nhiệm mầu, như:“Hoa vô tâm, nước không lưu cánh, Tâm vô niệm, mây chẳng vương tơ”. Khi tâm hồn đã thanh thoát, trong sáng thì cảnh vật trở nên chan hòa, đầy sức sống dâng trào, và đang trôi chảy trong cùng bản thể vô niệm, vô tâm. Thế nên, chuyển hóa tự tâm là con đường gột sạch tư tưởng thấp kém để mở ra con đường cao thượng.

Cũng vậy, tu tập Tịnh độ cốt lấy niệm Phật làm đầu, và niệm Phật chính là gột sạch tư tưởng vẩn đục kia. Mỗi câu niệm Phật là một tư tưởng xấu lắng xuống, một niệm trong sạch dấy lên; nhiều câu niệm Phật thì nhiều tư tưởng xấu được đoạn trừ. Và niệm Phật đến cực điểm của “nhất tâm bất loạn” thì ô nhiễm không còn. Lúc đó tâm ta và Phật không khác và cánh cửa của thế giới Bản nguyện sẽ mở rộng. Nhưng tại sao con người vẫn mãi khổ đau và tuyệt vọng ? Bởi vì con người tạo tác ra nhiều tư tưởng xấu, mãi rong ruổi kiếm tìm một đối tượng hư huyễn mà cho là thật:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Thơ Xuân Diệu)

Hay lời cầu xin của kẻ tuyệt vọng được diễn tả trong hai câu thơ của Huy Cận:

"Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dầu đi ngục thiên đàng
(Nói với thượng đế - Lửa Thiêng - Huy Cận)

Nỗi băn khoăn về cuộc sống toàn mỹ luôn là những ước vọng của hàng triệu người mà thi sĩ là lớp người mạnh dạn nói lên điều đó. Một lớp người sống "chớp giật”, tức là vội vã nắm chặt phút huy hoàng, dầu nó chỉ xảy ra trong tích tắc, bởi sau phút giây ấy là những tháng ngày khổ đau miên viễn. Và một lớp người khác phó mặc cho đời, phó mặc cho sự hoành hành của khổ đau và phó thác cho sự định đoạt của Thượng đế; và tất cả đều đang đau khổ. Nhưng viễn tưởng về một thế giới xa vời không có lý tưởng không phải là cách sống của Phật giáo. Phật Giáo không chấp nhận cách sống như thế; trái lại Phật Giáo đưa ra cách sống tỉnh thức, khi nào con người biết chuyển hóa thân tâm, chuyển khổ đau thành hạnh phúc, chuyển thất vọng thành nghị lực. Bởi vì, hạnh phúc và khổ đau không phải là thực thể ngoài ta, nó tồn tại trong tâm thức chúng ta[17]. Sự có mặt của hạnh phúc và khổ đau giống như bàn tay có úp có ngữa. Cái khổ đau ẩn tàng trong cái hạnh phúc, chẳng khác nào trong rác có hoa. Do đó, người biết tu tập chuyển hóa là người biết vun vén đống rác kia thành những chất liệu tạo nên hoa thơm, sắc thắm. Cũng như khổ đau và tuyệt vọng, biết cách ôm ấp và chuyển hóa thì nó sẽ trở nên hạnh phúc và bình an, lúc đó tâm ta bừng sáng, một sự đổi thay kỳ diệu của sự sống, đẩy lùi tất cả những tiếc nuối, tuyệt vọng và khổ đau. Nói như Albert Camus "... Rồi một ngày kia tâm hồn bừng sáng, và đặt câu hỏi, kể từ đó bắt đầu một cuộc sống mới, chôn vùi cái bóng tối tiếc nuối rã rời và đầy ngơ ngác”. Vì vậy, thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa khổ đau, là những gì mà tất cả mọi người cần làm để xây dựng hạnh phúc và để tiếp cận với thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

TỊNH ĐỘ: PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM

Khoa học ra đời thế kỷ 19, đã chứng minh, phân tích rất nhiều vấn đề có liên quan đến nhân quan sinh và vũ trụ quan. Nhưng khoa học vẫn băn khoăn trước vấn đề tâm linh, chứng ngộ, mà đặc biệt là con đường tâm linh chứng ngộ của Phật giáo. Điều này đã được các nhà khoa học, văn hào, triết gia,... nổi tiếng thừa nhận; chẳng hạn như thi sĩ và ký giả nổi tiếng người Anh, Edwin Arnold (1832-1904)[18], Egerton C. Baptist; nhà vật lý học lừng danh được trao tặng giải Nobel về Vật lý năm 1921, người Mỹ, gốc Đức, Albert Einstein (1879 - 1955); Khoa học gia Charles Eliot; hay như Bertrand Russell (1872-1970), nhà toán học, triết học, và là nhà cách mạng Anh, được tặng giải Nobel văn chương năm 1950; hoặc xa hơn như Blaise Pascal (1623-1662) đã từng đoạt danh hiệu là nhà thần đồng toán học, và là nhà vật lý, triết gia người Pháp, ông là sáng chế ra máy tính, và rất nhiều các danh sĩ khác trên thế giới đều rất hâm mộ và ca ngợi triết thuyết và tâm linh Phật giáo[19] . Đặc biệt, ông Albert Einstein nói như sau: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì nó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để theo khoa học, vì Phật giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt hẳn khoa học. Phật giáo là cái cầu nối giữa tôn giáo và tư tưởng khoa học. Mà những điều đó khích động con người khám phá những khả năng tiềm ẩn ngay trong mỗi con người và môi trường xung quanh nó. Phật giáo siêu việt thời gian và mãi mãi có giá trị”[20]. Đúng như thế, "Phật giáo sẽ trường tồn như mặt trời và mặt trăng và loài người hiện hữu trên mặt đất; do đó, Phật giáo là tôn giáo của con người, của nhân loại, cũng như của tất cả"[21]. Có thể nói rằng, sự xuất hiện của khoa học hiện đại chẳng qua chỉ là sự “trùng tuyên” và minh chứng lời dạy và sự thực chứng của giáo lý đạo Phật.

Tâm linh là con đường mà tất cả mọi giai tầng đều hướng đến để tìm hiểu khám phá và thực chứng nó. Nhưng muốn khám phá và thực chứng đời sống ấy, trước hết chúng ta phải có Đức tin. Trong kinh Phật dạy rằng: "Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu,..." và Kinh Hoa Nghiêm cũng nhấn mạnh rằng " Nếu rời khỏi tín căn, tâm thấp kém, ưu tư và hối hận, công hạnh không đầy đủ, thối mất sự tinh cần. Đối với thiện căn mà tâm đã sanh sự đình trụ, đối với một ít công đức tự cho là đã đủ, không thể thiện xảo phát khởi hạnh nguyện". Lại nữa, trong 37 phẩm trợ đạo, thì yếu tố "tín căn" và "tín lực" là hai yếu tố đứng đầu Ngũ căn và Ngũ lực. Chính đó là những yếu tố làm phát triển thiện căn, dẫn dắt con người vào Đạo và thực hành Chánh đạo.

Hay nói như Luận Đại Trí Độ Luận "Phật pháp mênh mông như biển cả, con người có thể dùng niềm tin để đi vào".

Niềm tin do đâu mà phát khởi? - Niềm tin phát khởi do bốn trường hợp.

a. do Hiện kiến: Niềm tin phát khởi là do nhìn thẳng vào hiện thực - nghĩa là nhìn thấy sanh, lão, bệnh, tử, ... là những sự khổ. Đó là những sự khổ hiển nhiên mà mọi người ai cũng thấy và cũng biết. Do thấy và biết như vậy, nên phát khởi niềm tin rằng "khổ đế" là một sự thật hiển nhiên của con người và của tất cả chúng sanh.

b. do Chiêm nghiệm và loại suy: nghĩa là dựa vào một sự kiện, một kết qủa thực tế, để suy nghiệm nguyên nhân. Chẳng hạn, dựa trên khổ đế để suy nghiệm nguyên nhân của khổ là "tập đế" và tin tưởng rằng"tập đế" là nguyên nhân của mọi khổ đau.

c. do Kinh nghiệm và thực hành: Niềm tin phát sinh là do kinh nghiệm của cuộc sống và do sự thực hành. Chẳng hạn, do thực hành "Đạo đế" là con đường thoát khổ, con đường dẫn đến sự hạnh phúc và an lạc.
d. do dựa vào lời nói của bậc Thánh: Chẳng hạn, Đức Phật nói "diệt đế" là cảnh giới hạnh phúc an lạc tối thượng, do lời nói ấy của Đức Phật làm phát sinh niềm tin cho những đệ tử của Ngài. Và những đệ tử của Ngài tin tưởng tu tập để đạt được cảnh giới hạnh phúc ấy[22].

Tin[23] không có nghĩa là chấp nhận một quy luật khắc nghiệt nào hay một sự ban thưởng, trừng phạt nào của một đấng tạo thế, thần linh.

Tin như thế là mê tín, là cuồng tín, là si tín. Trái lại, nếu đức tin được soi sáng bởi Trí tuệ (chánh kiến) thì Đức tin đó gọi là Chánh tín.

Tin ở sự nỗ lực chuyển hóa thân tâm của mình và tin ở sự chuyên tâm niệm Phật của mình để thể nhập thế giới Tịnh độ, gọi là tự tín. Tin vào trí tuệ của Phật là siêu việt, vượt qua tất cả mọi định kiến và sự giải thoát của Ngài là sự giải thoát khổ đau sanh tử, và nguyện lực của Ngài là con thuyền đưa chúng sanh về tịnh độ, gọi là tha tín. Vì thế, muốn về tịnh độ thì phải niệm Phật. Niệm Phật theo tịnh độ tông, nói chung gồm có bốn cách:

- Trì danh niệm Phật: Nghĩa là hành giả nắm lấy danh hiệu Đức Phật A Di Đà mà niệm. Trì danh niệm Phật, không có nghĩa là niệm Phật bằng miệng mà phải niệm Phật bằng tâm. Chúng ta phải nắm lấy danh hiệu đó bằng trái tim của chúng ta, và qua danh hiệu đó chúng ta thấy Phật có mặt trong tâm ta. Cho nên nói: "khi niệm danh hiệu Phật, lòng mình có sự rung động. Giống như mình gọi tên của người thương mình vậy. Nghe tên người thương, mình cảm thấy rung động, nó làm cho mình khỏe, nó làm cho mình có hy vọng. Niệm Bụt cũng phải như vậy. Niệm Bụt không phải chỉ là gọi tên một cách trống rỗng, mà phải làm cho lòng mình tràn đầy sự tín kính"[23].

- Quán tượng niệm Phật: Nghĩa là nương vào hình tượng của Đức Phật A Di Đà mà niệm lên danh hiệu của Ngài. Qua hình tượng với tướng hảo trang nghiêm thanh tịnh đó, hành giả có thể nhớ đến công hạnh và thệ nguyện độ sanh rộng lớn của Ngài mà niệm đến Ngài. Niệm cho đến khi nào "Nhất tâm bất loạn" thì sẽ được thấy được chư Phật và chư vị Bồ tát.

- Quán tưởng niệm Phật: Bằng trì danh niệm Phật hoặc quán tượng niệm Phật, hành giả có thể đạt tới trạng thái niệm Phật không còn loạn động. Ở đây, hành giả niệm Phật bằng sự quán tưởng, nghĩa là hành giả nhớ đến Phật với thân sắc vàng, hào quang trắng bạch của Ngài ADi Đà, hoặc quán tưởng cảnh giới Cực lạc với đủ thứ nghiêm lệ mà niệm Phật. Niệm Phật bằng sự quán tưởng cũng sẽ giúp hành giả đạt tới niệm Phật tam muội.

-Thật tướng niệm Phật: Qua quá trình hành giả thực tập ngày đêm các phương pháp niệm Phật ở trên, đến giai đoạn này, khả năng niệm Phật của hành giả đã thuần thục, nghĩa là hành giả niệm Phật đến giai đoạn niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Trong mọi động thái của hành giả luôn luôn thể hiện chất liệu niệm Phật; bấy giờ danh hiệu Phật không nằm ngoài tâm của hành giả mà nó như là máu, là tim, là phổi,...v.v...luôn có mặt trong chính cơ thể của hành giả. Phật với Tâm là một.

Nói gọn, Niệm Phật cần phải biết danh hiệu Phật, hình tượng, tướng hảo Phật, quán tưởng Phật, cho đến giai đoạn niệm Phật tự trong tâm. Niệm Phật như thế gọi là niệm Phật có nội dung, gọi là niệm Phật nhất tâm. Cho nên, dầu chưa thác sanh về Tịnh độ, nhưng đường về Tịnh độ đã thật sự có lối.

Ngày xưa, Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát nhờ niệm Phật mà đắc viên thông; trong chương "Đắc Đại Thế Chí niệm Phật Viên Thông", có ghi rằng: "Tôi nhờ pháp môn niệm Phật mà đắc viên thông, nếu người nào y theo pháp môn này tu hành thì cũng đắc viên thông". Chính vì thế, khi nhắc đến Bồ tát Đại Thế Chí, chúng ta nhớ rằng: "Ức Phật, niệm Phật, hiện tại đương lai quyết định thành Phật" (nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại và tương lai, chắc chắn thành Phật).

Nếu niệm Phật mà không có nội dung, không có sự nhất tâm thì dễ trở thành niệm Phật trống rỗng và mang chất liệu mê tín. Vậy, niệm Phật như thế nào để nó không trở nên là một sự cầu nguyện mang tính mê tín mà nó biến thành đời sống thực nghiệm?

Không phủ định cho rằng, Tôn giáo luôn đi kèm với sự cầu nguyện, Phật giáo không chấp nhận lối cầu nguyện của quần chúng. Nhưng, Phật giáo phủ định cách cầu nguyện vô lý không dựa đến Chánh kiến. Một lối cầu nguyện vô lý là một sự cầu nguyện không có tính thuyết phục, không có chất liệu của sự sống. Nếu có chăng, Phật giáo chấp nhận sự cầu nguyện thì sẽ khuyên rằng: “Nếu anh, chị cầu nguyện trước Đức Phật, hay Đức Chúa Jesus... thì anh, chị phải gột rửa những tư tưởng thấp kém, sửa đổi tất cả những tật xấu như tham lam, sân giận, trách móc, kỳ thị và bạo động trong tâm đi thì sự cầu nguyện ấy sẽ trở nên có hiệu quả và rất sống động”. Cho nên, niệm Phật là trở về với cõi sáng của tâm thức, “Niệm Phật chính là niệm chân lý, Niệm chân lý tức là niệm tâm. Niệm tâm tức là niệm Phật. Kỉnh Phật tức là kỉnh tâm, khinh Phật tức là khinh tâm mình. Khinh tâm bỏ tâm mà tìm hạnh phúc, tìm chân lý thì không bao giờ có hạnh phúc”[24]. Niệm Phật là niệm chân lý mà con người là hiện thân của chân lý. Con người cũng đầy đủ vạn năng và liên quan mật thiết với vũ trụ. Nho giáo cho rằng: “Nhân thân tiểu thiên địa”. Thân người là bầu trời con, do đó tất cả mọi ý nghĩa, lời nói, mọi cử chỉ và mọi động tác đều ảnh hưởng đến thế giới quan, và tác động đến toàn thể vũ trụ. Nên, sự hiện thân của Đức Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền cho đến cỏ cây hoa lá, chim hót, dòng suối chảy hay bước chân thiền hành lướt nhẹ qua bãi cỏ xanh rờn...đều là hiện thân của Chân lý. Bởi chân lý không tách rời sự sống thực tại. Vì thế, niệm Phật là cơ hội tiếp xúc với chân lý, là để sống chân thật với những gì có mặt và hiện hữu. Do đó, phương pháp niệm Phật là con đường thực nghiệm để khám phá ra những bí ẩn trong lòng thực tại sự sống để thấy được rằng: Quê hương vẫn là đây, Trăng vẫn mảnh trăng này. (Vô vi - Thơ Viên Minh).  (còn tiếp)

1 Kinh Vô lượng thọ quyển thượng: "Vô lượng thọ Phật uy thần quang minh tối tôn đệ nhất". Đối với Mật giáo là vị Tây phương Tôn trong ngũ Phật - Đông Phương, A Súc Phật; Nam phương Bảo Tướng Phật; Tây phương Di Đà Phật; Bắc phương Thành Tựu Phật và Trung Ương, Tỳ Lô Phật.
2 bảy kinh thuộc tịnh độ tông gồm: 1. kinh A di đà (1 q); 2. kinh vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác (4q, do Chi Câu Lâu Sấm, đời Hậu Hán dịch); 3. kinh đại a di đà (2 q); 4. kinh vô lượng thọ (2q); 5. kinh quán vô lượng thọ (1q); 6. kinh xưng tán tịnh độ Phật nhiếp thọ (1q), và 7. kinh cổ âm thanh tâm đà la ni (1q).
3 Vô lượng thọ kinh 無 量 夀 経 (Sukhàvativyhasùtra), do Khang Tăng Khải đời Tào Nguỵ dịch. Kinh này trước sau có 12 bản dịch, trong đó còn 5 bản và 7 bản bị mất. Các nhà chú thuật kinh này, gồm: 1. vô lượng thọ kinh nghĩa sớ, 1quyển, do Cát Tạng đời Tuỳ soạn; 2. Vô lượng thọ kinh nghĩa sớ, 2 quyển, do Tuệ Viễn dời Tuỳ soạn; 3. Vô lượng thọ kinh ký, 2quyển, quyển thượng hư nát, quyển hạ thất lạc, do Đường Huyền Nhất biên tập; 4. vô lượng thọ kinh liễu nghĩa thuật văn tán, 3 quyển, do Cảnh Hưng đời Đường soạn; 5. Vô lượng thọ kinh tông yếu, 1 quyển, do Nguyên Hiểu ở Tân La soạn; 6. Vô lượng thọ kinh khởi tín luận, 3 quyển, Bành Thanh soạn thuật; 7. Vô lượng thọ kinh hội dịch, 1 quyển, do Nguyên Hội đời Nguỵ dịch. (xem Từ điển Phật học Hán việt, Phân Viện nghiên cứu Phật học, nhà xuất bản khoa học xã hội, 1992, tr.1526-1527)
4 Tam tâm 三 心, theo kinh Quán Vô lượng thọ, gồm: 1. Chí thành tâm 志 誠 心(tâm chí thành, lòng tha thiết) , 2. Thâm tâm 深心 (tâm sâu xa, lòng sâu chặt hướng về) 3. Hồi hướng phát nguyện tâm 回 向 發 願 心(lòng phát nguyện quay về). Dùng ba tâm nầy mà tu tập pháp môn tịnh độ chắc chắn sẽ vãng sanh về Cực lạc.
Ngoài ra, để hiểu thêm thuật ngữ "Tam tâm",chúng ta có các cách giải thích về nó như sau: 1. Căn bản tâm 根 本 心 (chỉ tâm vương, tức a lại da, chứa đựng mọi chủng tử thiện ác, sản sinh ra các pháp nhiễm tịnh; 2. Y bản tâm 依本 心(tâm dựa vào mạt na thức, tức là thức thứ bảy trong tám thức; tâm này là gốc căn bản của nhiễm pháp; 3. Khởi sự tâm 起 事 心(tâm chấp trước vào ngoại cảnh lục thức, như nhãn, nhĩ, ... mà khởi lên các nghiệp.
Theo Đại thừa khởi tín luận quyển hạ, có ba loại tâm sau: 1. Chân tâm 眞 心 (無 有 分 別 故, nghĩa là tâm không phân biệt); 2. Phương tiện tâm 方 便 心 (任 運利 他 故, thông minh trong việc cứu giúp mọi người) 3. Nghiệp thức tâm 業 識 心 (微 細 起 滅 故, tâm sinh khởi và huỷ diệt rất vi tế)
Theo Tống kính lục, q89 .III, trong nguyện 18 của kinh vô lượng thọ có nói:"chí tâm, tín nhạo, muốn sanh ở nước ta", ba điều đó cũng được gọi là tam tâm.
Tam tâm, theo ngài Đạo Xước (Dôshaku, khoảng 645) dựa theo Tịnh Độ Luận Chú, như sau: 1.Thuần tâm 純 心 (tâm chín muồi, tâm thuần tín), 2. Nhất tâm 一 心 (tâm thuần nhất, tâm định tĩnh), 3. Tương tục tâm 相 續 心(tín tâm tương tục không bị pha tạp các niệm xấu).
Trong từng giai đoạn của một trong mười địa của Bồ tát, như Hoan hỷ đại, cho đến Pháp vân địa, cũng được gọi là tam tâm; gồm: 1. Nhập tâm 入 心(tâm mới đi vào trong địa vị đó), 2. Trú tâm 住 心 (tâm đã an trú trong địa vị đó); và 3. Xuất tâm 出 心 (tâm sắp ra khỏi địa vị đó, để tiếp tục Nhập, trú xuất ở địa vị sau).
5 當 來 之 世 經 道 滅盡 我 以 慈 悲 哀 憫, 特 留 此 經只 住 百 歳,其 有 眾 生 值 斯 經 者, 隨 意 所 願 皆可 得 渡。Đương lai chi thế kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế, kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tuỳ ý sở nguyện giai khả đắc độ - trích từ Vô lượng thọ kinh.
6 Quán vô lượng thọ kinh 观 無 量 夀 経 là tên tắt của "Phật thuyết quán vô lượng thọ Phật kinh", 1quyển, do ngài Cương Lương Da Sá đời Tống dịch; sách chú sớ của các nhà về kinh nầy như sau: 1. Quán vô lượng thọ kinh sớ, 1quyển, do Trí Giải đại sư đời Tuỳ thuyết; 2. Quán vô lượng thọ kinh sớ, 2 quyển, do Tuệ Viễn đời Tuỳ soạn; 3. Quán vô lượng thọ kinh sớ, 1quyển, do Cát Tạng đời Tuỳ soạn; 4. Quán vô lượng thọ kinh sớ, 4 quyển, do Thiện Đạo đời Đường tập ký; 5. Thích quán vô lượng thọ kinh ký, 1 quyển, do Pháp Thông, đời Đường soạn; 6. Quán vô lượng thọ Phật kinh sớ diệu tông sao, 6 quyển, do Trí Lễ đời Tống thuật; 7.Quán vô lượng thọ kinh nghĩa sớ, 3quyển, do Nguyên Chiếu đời Tống thuật; 8. Quán kinh phù tâm luận, 1 quyển, do Giới Độ đời Tống thuật; 9. Quán vô lượng thọ Phật kinh ước luận, 1 quyển, do Bành Tế Thanh thuật.
7 Vi đề hy 韋 提 希(vaidehi) dịch là Tư duy, Thắng diệu thân, là hoàng hậu của Vua Tần bà sa la nước ma kiệt đà, là mẹ của Vua A xà thế.
8 Lục niệm六 念: gồm: 1.Niệm Phật, 2.Niệm Pháp, 3.Niệm Tăng, 4.Niệm giới, 5.Niệm Thí và 6.Niệm Thiên; xem Kinh Biệt Dịch Tạp A Hàm, q9, Kinh Niết bàn q 18, Luận Trí độ q 22, Đại Thừa Nghĩa Chương, q12.
Để hiểu thêm về Lục Niệm theo giới bổn, hành sự sao quyển thượng, gồm:1. Niệm tri nhật nguyệt (nhớ biết ngày tháng thọ giới), 2. Niệm tri thực xứ (nhớ biết chỗ ăn uống, nhớ rõ nơi thỉnh thọ thực, đừng để quên mà làm buồn lòng người thỉnh mời),3. Niệm thọ giới thời hạ lạp (nhớ tuổi hạ từ sau ngày thọ giới), 4. Tri y bát hữu vô đẳng (nhớ biết y, bát, ..v..v...của mình có hay không, biết mấy y thì đủ lượng, bát thế nào là ứng lượng khí), 5. Niệm đồng biệt xứ ( nhớ chỗ ở chung và riêng), và 6. Niệm khang luy (nhớ là mình khoẻ hay yếu, nếu không bệnh thì biết là không bệnh để kham việc hành đạo, nếu có bệnh thì phải kịp thời chữa trị).
9 Kinh A di đà 阿 彌 陀 経 đã được các nhà chú giải rộng ra như sau: 1. A di đà kinh nghĩa ký, 1 quyển, do Trí Khải đời Tuỳ trình bày, Quán Đỉnh ghi chép; 2. A di đà kinh nghĩa thuật, thông tán sớ, 3 quyển, do Khuy Cơ đời Đường soạn; 3. A di đà kinh sớ, 1 quyển, do Trí Viễn đời Tống thuật; 4. A di đà kinh nghĩa sớ văn trí ký, 3 quyển, do Nguyên Hiểu đời Tống thuật, Giới Độ ghi; 5. A di đà kinh cú giải, 1 quyển, do Tính Trừng đời Nguyên cú giải; 6. A di đà kinh lược giải, 1 quyển, do Đại Hữu đời Minh kể; 7. A di đà sớ sao, 4 quyển, do Châu Hoằng đời Minh thuật, 8. A di đà sớ sao sự nghĩa, 1 quyển, A di đà sớ sao vấn biện, 1 quyển, A di đà sớ sao diễn nghĩa, 4 quyển, do Cổ Đức Pháp sư đời Minh diễn nghĩa, Tái Thuận định bản; 9. Tịnh độ dĩ thuyết, 1 quyển, do Đại Huệ đời Minh giải thích; 10. A di đà kinh yếu quyết, 1 quyển, do Trí Húc giải; 11. A di đà kinh thiệt tướng, 1 quyển, do Tịnh Đĩnh soạn;12. A di đà trực giải chính hành, 1 quyển, do Liễu Căn chú; 13. A di đà kinh lược chú, 1 quyển, do Tục Pháp lục chú; 14. A di đà kinh lược giải viên trung sao, 2 quyển, do Đại Hựu đời Minh thuật, Truyền Đăng sao lục; 15. A di đà kinh trích yếu dị giải, 1 quyển, do Chân Trung thuật; 16. A di đà kinh ước luận, 1 quyển, do Bành Thế Thanh thuật; 17. A di đà kinh yếu giải tiện mông sao, 3 quyển, do Trí Húc đời Minh yếu giải, Đạt Mặc Tạo sao lục, Đạt Lâm tham đính; 18. A di đà kinh sớ sao hiệt, 1quyển, do Chu Hoằng đời Minh sao sớ, Từ Hoà Đình hiệt nghĩa.
10 Kinh A Di đà tiểu bản, Hán văn: 従 是 西 方 過 十 万 億佛 度, 有 世 界 名 曰極 樂 其 度 有 佛 效 阿 彌 陀 今現 在 説 法。"Tùng thị tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A di đà kim hiện tại thuyết pháp"
11 Bát công đức thủy 八 功 德 水, gồm :1. Trừng tịnh 澄淨 (lóng trong); 2. Thanh lương 清 梁 (mát mẽ); 3. Cam mỹ 甘美 (ngon ngọt); 4. Khinh nhuyễn 輕 軟 (nhẹ mềm); 5. Nhuận trạch 潤 澤 (nhuần láng); 6. An hoà 安 和 (bình an và dung hợp); 7. Trừ cơ khát 除 饑 渴 (trừ đói khát) ; và 8. Trưởng dưỡng chư căn 長 養 諸 根 ( nuôi lớn các căn lành).
12 Thất bảo 七 寶 gồm: 1. Vàng, 2. Bạc, 3. Lưu ly, 4. Pha lê, 5. Xà cừ, 6. Xích châu (chuỗi ngọc) và, 7. Mã não
13 Hán văn, trích từ Kinh A Di Đà tiểu bản: 舍 利 拂, 彼 度何 故 名 爲 極 樂 ? 其 國 眾 生 無 有 眾 苦 但受 諸 樂 故 名 極樂 Xá lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực lạc? kỳ quốc chúng sanh vô hữu chúng khổ đản thọ chư lạc, cố danh Cực lạc.
14 Hán văn: 密 竹 不 防 流 水 過。 山 高 無 礙 白 雲 飛 “Mật trúc bất phòng lưu thủy quá/Sơn cao vô ngại bạch vân phi” (Thong dong Lục)
15 五濁 悪 世 誓 先 入, 如 一 眾 生 未 成 佛, 終 不 於此 取 泥 環 Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập/ như nhất chúng sanh vị thành Phật/chung bất ư thử thủ nê hoàn (đời ác với năm thứ vẫn đục, (tôi) nguyện vào đầu tiên, như có chúng sanh nào chưa thành Phật, không bao giờ (tôi) giữ lấy Niết bàn Phật).
16 Đoạn khác trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật cũng day: " Nhược nhơn dục liễu tri, Tam thế nhất thế Phật, Ưng quán pháp giới tánh, Nhất thiết duy Tâm tạo - Nếu người nào muốn thấy và hiểu được tất cả các Đức Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, thì người ấy nên quán chiếu rằng: trong bản chất của pháp giới, tất cả đều do tâm tạo ra.
17 Trong khi nhìn nhận rằng, trạng thái tinh thần là yếu tố chủ đạo của chúng ta có thể đạt được hạnh phúc, dĩ nhiên chúng ta không thể phủ nhận rằng, những nhu cầu vật chất cơ bản, tất yếu của chúng ta về thức ăn, áo quần, nơi ở cần phải được thoả mãn, nhưng một khi những nhu cầu này đã được thỏa mãn thì vấn đề hết sức rõ ràng: chúng ta sẽ từ chối nó và đi tìm một cái khác cao hơn, chúng ta cần có một tâm hồn, tâm hồn này là yếu tố cơ bản mà chúng ta cần có để đạt được hạnh phúc hoàn toàn.... Đức Dalai Lama nói: "vì vậy, tôi nghĩ rằng, việc trao dồi, phát huy những trạng thái tinh thần tích cực như lòng thương tử tế và lòng từ bi sẽ giúp chúng ta đạt được hạnh phúc cũng như có được tinh thần khoẻ mạnh hơn." (xem thêm HH Dalai Lama & Howard C. Cutler, Thuật sống trong Hạnh phúc, nxb Trẻ, 2004, tr. 43 & 44)
18 Trong cuốn The Light of Asia on Life and Teaching of Buddha, E. Arnold nói rằng: "I have often said and I shall say again and again, that between Buddhism and moderm science there exists a close intellectual bond"(Tôi đã từng nói và sẽ lặp đi lặp lại mãi, rằng giữa Phật giáo và khoa học hiện đại có sự gắn bó trí thức chặt chẽ)
19 xem thêm, Ven. Dr.K.Sri.Dammananda, Buddhism in the eyes of intellectuals.
20 Nguyên văn Anh ngữ: "If there is any religion that would cope with modern to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism needs no surender its views to science, because it embraces science as well as goes beyond science. Buddhism is the bridge between riligions and scientific thoughts, that stimulates man to discover the latent potentialities within himself and his environnement Buddhism is timeless - xem, Đối thoại với Giáo Hoàng - Gioan Phao Lô II, Giao Điểm xb,1995, tr. 314
21 Dammananada, Buddhism in the eyes of intellectuals, sđd, bản dịch Thích Tâm Quang, tp.Hồ chí Minh tr.64: "Buddism will last as long as the sun and moon last and the human race exists upon the earth, for it is the religion of man, of humanity as a whole" - Bandaranaike, Cựu thủ tướng Sri Lanka,
22 xem Bikkhu Thích Thái Hoà -Niềm tin bất hoại đối với Đức Phật - nội lưu, 1990, tr.15 & 16
23 Mã Minh, đại thừa khởi Tín luận, hạ, T32n1667, tr590a19: "信有 四 種: 一 信 根 本, 謂 樂 念 眞 如 法 故。二 信 佛具 足 無 邊 功 德, 謂 常 樂 頂 禮 恭 敬 供 養, 聽 聞正 法 如 法 修 行, 回 向 一 切 智 故。三 信 法 有 大利 益, 謂 常 樂 修 行 諸 波 羅 密 故。四 信 正 行 僧,謂 常 供 養 諸 菩薩 眾正 修 自 利 利 他 行 故" (Tín hữu tứ chủng: Nhất, căn bản tín, vị nhạo niệm chơn như pháp cố; Nhị, tín Phật cụ túc vô biên công đức, vị thường nhạo đảnh lễ cung kính cúng dường, thính văn chánh pháp như pháp tu hành, hồi hướng nhất thiết trí cố; Tam, tín pháp hữu đại lợi ích, vị thường nhạo tu hành chư ba la mật cố; Tứ, tín chánh hạnh Tăng, vị thường cúng dường chư Bồ tát chúng, chánh tu tự lợi lợi tha cố- Tín có bốn loại: Một là lòng tin căn bản, tức là ưa thích pháp Chân như; Hai là tin Phật có đầy đủ vô biên công đức, tức là thường thích đảnh lễ, cung kính cúng dường, khéo nghe chánh Pháp, như pháp tu tập, hồi hướng về Nhất thiết trí; Ba là Tin vào Pháp có lợi ích lớn, tức là thường ưa tu tập các hạnh ba la mật; Bốn là Tin vào Tăng có phẩm hạnh, tức là thường cúng dường các vị Bồ tát, chánh tu các hạnh lợi mình lợi người)
- Luận Câu Xá, quyển 4, nói rằng: "Tín là khiến lòng trong lặng"
- Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 2:"Đối với Tam bảo giữ tịnh tâm, không nghi ngờ thì gọi là Tín".
23 Nhất Hạnh, Thiết lập Tịnh độ, kinh A Di Đà thiền giải, nxb Lá Bối, tr.79
24 xem Viên Giác - Quan hệ tư tưởng , tr. 33

No comments: